GIAO DỊCH LIÊN KẾT KHI DOANH NGHIỆP ĐI VAY

GIAO DỊCH LIÊN KẾT KHI DOANH NGHIỆP ĐI VAY

Khi nhắc đến giao dịch liên kết (GDLK), nhiều người thường liên tưởng ngay đến hoạt động chuyển giá và cho rằng GDLK chỉ liên quan đến các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Vì vậy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không quan tâm đến GDLK, nghĩ rằng họ không thuộc diện phải tuân thủ các quy định về quản lý thuế đối với GDLK.

Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành, nhiều giao dịch bình thường của các doanh nghiệp Việt Nam, dù không liên quan trực tiếp đến chuyển giá, nhưng vẫn phải chịu sự quản lý của pháp luật về GDLK, theo Nghị định số 132/2020/NĐ-CP ngày 05/11/2020.

KHI NÀO XÁC ĐỊNH DOANH NGHIỆP CÓ GIAO DỊCH LIÊN KẾT?

Một doanh nghiệp được xác định là có GDLK khi phát sinh giao dịch với các bên có quan hệ liên kết (QKLK). Cụ thể, để xác định có GDLK hay không, cần thỏa mãn hai điều kiện sau:

1.      Có quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp A và doanh nghiệp B.

2.      Phát sinh giao dịch giữa A và B trong kỳ tính thuế.

Vậy thế nào là các bên có Quan Hệ Liên Kết?

Theo Nghị định 132/2020, các bên có quan hệ liên kết là khi một bên có ít nhất 25% cổ phần của bên còn lại, hoặc hai bên cùng do một cá nhân điều hành, và còn nhiều trường hợp khác được quy định tại Khoản 2, Điều 5 của Nghị định này.

Việc phát sinh giao dịch có thể là các hoạt động như mua bán, cho thuê, dịch vụ, vay mượn… theo Khoản 2, Điều 1 của Nghị định 132/2020. Trong bài viết này, chúng ta chỉ xét đến các giao dịch liên quan đến vay và cho vay, mà doanh nghiệp Việt Nam thường gặp.

Các trường hợp vay dẫn đến Giao Dịch Liên Kết

Có hai trường hợp dẫn đến việc xác định doanh nghiệp có GDLK khi đi vay:

1. Trường hợp đầu tiên: Doanh nghiệp vay một doanh nghiệp khác, hoặc được một doanh nghiệp khác bảo lãnh vay, với điều kiện khoản vay ít nhất bằng 25% vốn chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay.

Lưu ý: Nếu khoản vay đạt ít nhất 25% vốn chủ sở hữu nhưng không vượt quá 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn, hoặc ngược lại, khoản vay chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn nhưng chưa đủ 25% vốn chủ sở hữu, thì doanh nghiệp chưa được xác định là có GDLK.

2. Trường hợp thứ hai: Doanh nghiệp vay từ cá nhân điều hành, kiểm soát doanh nghiệp, hoặc từ cá nhân thuộc các mối quan hệ gia đình gần gũi (vợ, chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em...) với ít nhất 10% vốn chủ sở hữu tại thời điểm phát sinh giao dịch trong kỳ tính thuế.

Tóm lại:

Nếu doanh nghiệp đi vay trong một trong hai trường hợp nêu trên, sẽ được xác định là có GDLK và bị khống chế chi phí lãi vay được trừ trong kỳ tính thuế TNDN.

Các ví dụ minh họa:

Ví dụ 1:
Doanh nghiệp A vay tiền từ ngân hàng. Liệu doanh nghiệp A có bị xác định là có GDLK hay không?

Căn cứ theo Luật Các tổ chức tín dụng (Khoản 1, Điều 4, Luật số 47/2010), ngân hàng là tổ chức tín dụng và là doanh nghiệp, do đó sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 132/2020.
Kết luận: Nếu doanh nghiệp A vay từ ngân hàng với khoản vay ít nhất bằng 25% vốn chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn, thì sẽ được xác định là có GDLK.
Ví dụ 2:
Trong kỳ tính thuế, Doanh nghiệp B vay từ ba tổ chức X, Y, Z. Mỗi khoản vay từ các tổ chức này chưa đạt mức quy định về 25% vốn chủ sở hữu và 50% nợ trung và dài hạn. Vậy doanh nghiệp B có bị xác định là có GDLK không?

Câu trả lời: Chúng ta sẽ xét từng khoản vay riêng biệt từ các tổ chức X, Y, Z. Nếu mỗi khoản vay không đáp ứng các điều kiện, thì Doanh nghiệp B không được xác định là có GDLK, dù tổng khoản vay của ba tổ chức cộng lại đạt mức quy định.
Ví dụ 3:
Doanh nghiệp C vay tiền từ doanh nghiệp D nhiều lần trong kỳ tính thuế. Mỗi khoản vay riêng lẻ chưa đạt mức quy định về GDLK, nhưng tổng dư nợ các khoản vay đạt mức quy định.

Câu trả lời: Trong trường hợp này, tổng dư nợ mới là căn cứ để xác định có GDLK hay không.
Ví dụ 4:
Doanh nghiệp C vay của doanh nghiệp D nhiều lần, nhưng trả mỗi khoản vay xong mới vay tiếp.

Câu trả lời: Mỗi khoản vay sẽ được xem xét riêng biệt để xác định có GDLK hay không.
Ví dụ 5:
Doanh nghiệp E vay tiền từ giám đốc của chính mình, người điều hành, kiểm soát doanh nghiệp.

Câu trả lời: Nếu số tiền vay ít nhất 10% vốn chủ sở hữu tại thời điểm phát sinh giao dịch vay trong kỳ tính thuế, thì doanh nghiệp E sẽ được xác định là có GDLK.
Lưu ý quan trọng:

1.      Dù là vay không lãi, vay “mượn tiền” hay vay với lãi suất 0%, nếu đáp ứng các điều kiện quy định, vẫn được xem là giao dịch liên kết.

2.      Việc so sánh khoản vay với 25% vốn chủ sở hữu phải căn cứ vào số liệu tại thời điểm phát sinh khoản vay.

3.      Việc so sánh khoản vay chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn phải căn cứ vào số liệu nợ trên Bảng cân đối kế toán tại thời điểm khóa sổ kế toán.

Quy định về Khấu Trừ Chi Phí Lãi Vay

Doanh nghiệp có GDLK phải xác định chi phí lãi vay được trừ trong kỳ tính thuế theo quy định tại Điều 16, Khoản 3 của Nghị định 132/2020. Công thức tính chi phí lãi vay được trừ tối đa là:
Tổng lãi tiền vay được trừ tối đa = 30% x EBITDA.

Ví dụ tính EBITDA:
Giả sử trong năm 2024, Doanh nghiệp A có các thông số sau:

Doanh thu bán hàng: 500.000
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh: 21.000
Chi phí lãi vay: 30.000
Chi phí khấu hao: 5.000
Lãi tiền gửi, cho vay: 5.000
Công thức tính EBITDA là:
EBITDA = Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh + Chi phí lãi vay - Lãi tiền gửi, cho vay + Chi phí khấu hao = 21.000 + 30.000 - 5.000 + 5.000 = 51.000

Tổng chi phí lãi vay được trừ tối đa sẽ là:
30% x 51.000 = 15.300.

Từ đó, chi phí lãi vay không được trừ sẽ là:
30.000 - 15.300 = 14.700.

Kê Khai Giao Dịch Liên Kết

Doanh nghiệp có GDLK phải kê khai thông tin về quan hệ liên kết và giao dịch liên kết trong các phụ lục I, II, III của Nghị định 132/2020 và nộp cùng Tờ khai quyết toán thuế TNDN.